Câu chuyện „gia đình“ , thế hệ và chiếc la bàn
Là một đứa trẻ may mắn được sinh ra trong thời bình, tôi sẽ mãi không hình dung hết những nỗi đau cha ông mình đã đi qua trong thời chiến tranh loạn lạc. Ngồi uống một tách trà bạc hà từ vườn nhà ông bà, tôi ngồi nghe ông kể về những đau thương và mất mát tôi không thể tưởng tượng. Ông và chị em xa gia đình lúc mười mấy tuổi, xách ba lô rời Việt Nam với một trách nhiệm nặng về trên vai, rằng „mày đi để cứu lấy gia đình mình“. Ở đất khách quê người, không biết tiếng cũng chả hiểu gì về văn hóa, với hai bàn tay trống rỗng, ông bà đã lăn lộn ở xứ người, với nhiều nỗi sợ, nỗi nhục, cùng nỗi nhớ gia đình, nỗi đau về tình hình của đất nước. Ở kia hay ở đây, ai có sống chết ra sao cũng chẳng rõ. Khái niệm về „nhà“ và „gia đình“ khi ấy không phải là một sự lựa chọn, mà là một nghĩa vụ. Gia đình là gốc rễ, là nguồn sống, là động lực để vươn lên, là ý niệm cuối cùng có thể tựa vào. Khi cả bầu trời và tương lai trông như bị nhuốm bởi một màu đen đặc, hai tiếng gia đình là tia sáng duy nhất giúp những đớn đau và cam chịu ở hiện tại trở nên có ý nghĩa.
„Những sang chấn sẽ kéo dài đến hơi thở cuối cùng, và còn hơn thế nữa.“ Nghiên cứu của đại học Havard được công bố vào năm 2022 chỉ ra rằng những chấn thương tâm lý thời trẻ để lại không chỉ những vết thương tâm lý về sau, mà còn tác động trực tiếp lên cơ thể và não bộ. Vào những năm 1960, người ta đã tìm ra những bằng chứng về việc sang chấn của chiến tranh còn có tính di truyền qua nhiều thế hệ với nhiều nghiên cứu cùng những nhóm người đã đi qua chiến tranh hay diệt chủng (ta gọi là „Chấn thương xuyên thế hệ“ - transgenerationales Trauma). Đúng thế, nỗi đau của thế hệ trước có thể được „ghi“ trực tiếp vào mã Gen và truyền cho thế hệ sau (chính xác là ít nhất qua ba thế hệ). Chấn thương xuyên thế hệ thường hình thành khi những nỗi đau của thế hệ trước không được giải quyết tận gốc rễ. Những đứa trẻ của thế hệ sau, tuy không trực tiếp trải qua những câu chuyện thời chiến, nhưng vẫn có những triệu chứng của một cuộc sang chấn: thường bị căng thẳng, lo âu hay bất an không rõ nguyên nhân, dễ mắc những bệnh lí về tâm lí như trầm cảm, sự xa cách quá mức hay bảo vệ quá mức với vị trí là bố mẹ, mất ngủ, vân vân.
Nỗi đau của những ngày tháng cũ đã qua đi từ lâu, nhưng những dư âm nó để lại vẫn còn tồn tại mãi đến tận giờ, và có thể còn kéo dài hơn thế. Đến cuối cùng, chúng ta có nhiều kết nối với nhau hơn chúng ta tưởng. Dù không thể hình dung hết, nhưng biết đâu những nỗi đau mà các tiền bối đã trải qua vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai, nó vẫn đâu đó len lỏi trong tim của ông bà, cô chú, bố mẹ và cả trong tôi. Ngồi nghe các ông nói về gia đình, tôi thấy nó không chỉ đơn thuần là câu chuyện về hai tiếng „gia đình“, mà còn là những câu chuyện của mồ hôi, nước mắt và sự cô độc. Tôi hiểu giá trị gia đình các ông muốn truyền tải cho mình, tôi thậm chí còn thấy kính trọng nó.
Thế nhưng đâu đó bên trong mình, tôi nhận ra khái niệm về gia đình trong tôi trông không hệt như bức tranh trong lòng của các ông bà ngày đó.
Hình ảnh gia đình trong tôi, không còn sự ràng buộc của máu mủ ruột rà. Ở thời của những bậc đi trước, họ muốn siết chặt lấy tay nhau để bảo vệ một hình ảnh gia đình đủ đầy, dù tay họ có đang rướm máu. Họ tin, là gia đình, ta phải luôn đi cùng nhau, dù điều đó không hề dễ dàng. Gia đình là lí do duy nhất để tồn tại, để sinh tồn. Gia đình là lí do để những mồ hôi và nước mắt có ý nghĩa của nó. Những điều này đều xác đáng cả. Thế nhưng ở thời đại tôi được sinh ra, mọi thứ đã trông khác đi nhiều. Đó là nơi mà ta không chỉ tồn tại bằng cách nương nhờ vào nhau, mà ta còn tồn tại nhờ việc dám buông những người/những điều làm mình đau. Ở thời đại này, tôi may mắn có được thứ gọi là „sự lựa chọn“. Tôi vì thế đã từ lâu chọn cách nhìn „gia đình“ bằng một lăng kính khác: Gia đình là nơi để về, là nơi tôi nhận được tình yêu thương, sự tôn trọng khi tôi là chính tôi - Không phải nơi làm tôi tự ti, đau đớn hay thấy mình bị miệt thị bởi một chiếc áo lụa là mang tên „giá trị gia đình truyền thống“. Tình yêu hướng ra ngoài, nhưng cũng luôn nên chừa phần hướng về bên trong mình. Bản thân mỗi người chúng ta, đều xứng đáng được để tâm bởi chính ta. Tình yêu với tôi không phải lúc nào cũng đồng nghĩ với việc giữ lấy, vì đôi khi nó là câu chuyện của việc học cách buông. Ta làm hết thảy mọi điều đôi khi không chỉ vì người, mà còn vì chính mình. Ông bà tôi đấu tranh và hi sinh nhiều điều để giữ lấy hai chữ gia đình, tôi thì cố gắng học cách buông những người làm đau mình, dù đó có là người trong gia đình đi nữa. Tôi tin rằng không có đúng sai trong hai lối sống này, vì nó là hệ quả từ hai hiện thực cuộc sống hoàn toàn khác nhau.
Có nhiều điều đã đổi thay từ thế hệ của các ông bà sang đến thế hệ tôi. Tôi cũng thấy bản thân mang trong lòng những niềm tin mới, đôi khi chúng không trông giống với những gì ông bà muốn tôi mang theo. Tôi biết và hiểu điều này. Khi đón nhận những giá trị ông bà đã cố truyền dạy và để lại sau cả một đời người, tôi thật lòng thấy kính trọng và thật biết ơn. Thế nhưng, sẽ đâu đó vẫn luôn có những điều mà cả hai thế hệ khó để hiểu nhau. Đâu đó sẽ có những điều tôi nghe, để tâm, và phải suy tư thật nhiều vì tôi không chắc đó là điều tôi muốn làm, hay nên làm. Những khác biệt trong quan điểm giữa các thế hệ là lẽ thường, và tôi luôn sẵn sàng đón nhận nó. Dù phải chọn đi chọn lại, tôi của tiện tại sẽ vẫn muốn chọn việc sống theo niềm tin và lí tưởng của mình, tôi sẽ vẫn chọn nói lên tiếng nói và giá trị của thời đại mình. Thế nhưng dù đi xa đến đâu đi nữa, tôi vẫn luôn muốn mang theo mình chiếc kim la bàn mà ông bà tôi đã luôn muốn để lại cho con cháu mình: sự tử tế, sự kiên trì, lòng bao dung và niềm tin vào những kết nối. Dù mai này tôi có lạc đường, tôi biết mình luôn có thể „neo“ vào những giá trị này để tìm đường về nhà, tìm đường về với quê cha đất tổ.
„Những sang chấn sẽ kéo dài đến hơi thở cuối cùng, và còn hơn thế nữa.“ Nghiên cứu của đại học Havard được công bố vào năm 2022 chỉ ra rằng những chấn thương tâm lý thời trẻ để lại không chỉ những vết thương tâm lý về sau, mà còn tác động trực tiếp lên cơ thể và não bộ. Vào những năm 1960, người ta đã tìm ra những bằng chứng về việc sang chấn của chiến tranh còn có tính di truyền qua nhiều thế hệ với nhiều nghiên cứu cùng những nhóm người đã đi qua chiến tranh hay diệt chủng (ta gọi là „Chấn thương xuyên thế hệ“ - transgenerationales Trauma). Đúng thế, nỗi đau của thế hệ trước có thể được „ghi“ trực tiếp vào mã Gen và truyền cho thế hệ sau (chính xác là ít nhất qua ba thế hệ). Chấn thương xuyên thế hệ thường hình thành khi những nỗi đau của thế hệ trước không được giải quyết tận gốc rễ. Những đứa trẻ của thế hệ sau, tuy không trực tiếp trải qua những câu chuyện thời chiến, nhưng vẫn có những triệu chứng của một cuộc sang chấn: thường bị căng thẳng, lo âu hay bất an không rõ nguyên nhân, dễ mắc những bệnh lí về tâm lí như trầm cảm, sự xa cách quá mức hay bảo vệ quá mức với vị trí là bố mẹ, mất ngủ, vân vân.
Nỗi đau của những ngày tháng cũ đã qua đi từ lâu, nhưng những dư âm nó để lại vẫn còn tồn tại mãi đến tận giờ, và có thể còn kéo dài hơn thế. Đến cuối cùng, chúng ta có nhiều kết nối với nhau hơn chúng ta tưởng. Dù không thể hình dung hết, nhưng biết đâu những nỗi đau mà các tiền bối đã trải qua vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai, nó vẫn đâu đó len lỏi trong tim của ông bà, cô chú, bố mẹ và cả trong tôi. Ngồi nghe các ông nói về gia đình, tôi thấy nó không chỉ đơn thuần là câu chuyện về hai tiếng „gia đình“, mà còn là những câu chuyện của mồ hôi, nước mắt và sự cô độc. Tôi hiểu giá trị gia đình các ông muốn truyền tải cho mình, tôi thậm chí còn thấy kính trọng nó.
Thế nhưng đâu đó bên trong mình, tôi nhận ra khái niệm về gia đình trong tôi trông không hệt như bức tranh trong lòng của các ông bà ngày đó.
Hình ảnh gia đình trong tôi, không còn sự ràng buộc của máu mủ ruột rà. Ở thời của những bậc đi trước, họ muốn siết chặt lấy tay nhau để bảo vệ một hình ảnh gia đình đủ đầy, dù tay họ có đang rướm máu. Họ tin, là gia đình, ta phải luôn đi cùng nhau, dù điều đó không hề dễ dàng. Gia đình là lí do duy nhất để tồn tại, để sinh tồn. Gia đình là lí do để những mồ hôi và nước mắt có ý nghĩa của nó. Những điều này đều xác đáng cả. Thế nhưng ở thời đại tôi được sinh ra, mọi thứ đã trông khác đi nhiều. Đó là nơi mà ta không chỉ tồn tại bằng cách nương nhờ vào nhau, mà ta còn tồn tại nhờ việc dám buông những người/những điều làm mình đau. Ở thời đại này, tôi may mắn có được thứ gọi là „sự lựa chọn“. Tôi vì thế đã từ lâu chọn cách nhìn „gia đình“ bằng một lăng kính khác: Gia đình là nơi để về, là nơi tôi nhận được tình yêu thương, sự tôn trọng khi tôi là chính tôi - Không phải nơi làm tôi tự ti, đau đớn hay thấy mình bị miệt thị bởi một chiếc áo lụa là mang tên „giá trị gia đình truyền thống“. Tình yêu hướng ra ngoài, nhưng cũng luôn nên chừa phần hướng về bên trong mình. Bản thân mỗi người chúng ta, đều xứng đáng được để tâm bởi chính ta. Tình yêu với tôi không phải lúc nào cũng đồng nghĩ với việc giữ lấy, vì đôi khi nó là câu chuyện của việc học cách buông. Ta làm hết thảy mọi điều đôi khi không chỉ vì người, mà còn vì chính mình. Ông bà tôi đấu tranh và hi sinh nhiều điều để giữ lấy hai chữ gia đình, tôi thì cố gắng học cách buông những người làm đau mình, dù đó có là người trong gia đình đi nữa. Tôi tin rằng không có đúng sai trong hai lối sống này, vì nó là hệ quả từ hai hiện thực cuộc sống hoàn toàn khác nhau.
Có nhiều điều đã đổi thay từ thế hệ của các ông bà sang đến thế hệ tôi. Tôi cũng thấy bản thân mang trong lòng những niềm tin mới, đôi khi chúng không trông giống với những gì ông bà muốn tôi mang theo. Tôi biết và hiểu điều này. Khi đón nhận những giá trị ông bà đã cố truyền dạy và để lại sau cả một đời người, tôi thật lòng thấy kính trọng và thật biết ơn. Thế nhưng, sẽ đâu đó vẫn luôn có những điều mà cả hai thế hệ khó để hiểu nhau. Đâu đó sẽ có những điều tôi nghe, để tâm, và phải suy tư thật nhiều vì tôi không chắc đó là điều tôi muốn làm, hay nên làm. Những khác biệt trong quan điểm giữa các thế hệ là lẽ thường, và tôi luôn sẵn sàng đón nhận nó. Dù phải chọn đi chọn lại, tôi của tiện tại sẽ vẫn muốn chọn việc sống theo niềm tin và lí tưởng của mình, tôi sẽ vẫn chọn nói lên tiếng nói và giá trị của thời đại mình. Thế nhưng dù đi xa đến đâu đi nữa, tôi vẫn luôn muốn mang theo mình chiếc kim la bàn mà ông bà tôi đã luôn muốn để lại cho con cháu mình: sự tử tế, sự kiên trì, lòng bao dung và niềm tin vào những kết nối. Dù mai này tôi có lạc đường, tôi biết mình luôn có thể „neo“ vào những giá trị này để tìm đường về nhà, tìm đường về với quê cha đất tổ.
Nhận xét
Đăng nhận xét